Cán bộ Ban Dân tộc tỉnh Nghệ An thảo luận kinh nghiệm tại thực địa về phát triển cây trồng có giá trị kinh tế vùng đồng bào DTTS của tỉnh.
Địa bàn có đông đồng bào dân tộc thiểu số (DTTS) sinh sống, là những vùng chiến lược đặc biệt quan trọng trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước. Để xây dựng địa bàn nêu trên phát triển nhanh, vững bền, hòa nhập với sự phát triển chung của cả nước, việc phát triển nguồn nhân lực, nhất là việc xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức (CBCCVC) các cấp nói chung, cán bộ lãnh đạo quản lý nói riêng là một trong những nhiệm vụ quan trọng và cấp thiết, góp phần nâng cao hiệu quả quản lý quốc gia, xây dựng hệ thống chính trị cơ sở vùng đồng bào DTTS vững mạnh toàn diện. Đó cũng là điều kiện mấu chốt để thực hiện chính sách dân tộc của Đảng.
BÀI 1 Khẳng định vai trò, kiến lập nòng cột
Những năm qua, thực hành các chủ trương, chính sách của Đảng, quốc gia, các cấp ủy đảng các địa phương khai triển nhiều giải pháp tạo nguồn, đào tạo, bồi dưỡng, quản lý, dùng đội ngũ CBCCVC người DTTS. hàng ngũ này đã dần khẳng định vai trò nòng cốt, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội, giữ vững an ninh, chính trị, trật tự tầng lớp vùng đồng bào DTTS của cả nước.
Đòi hỏi thực từ tiễn
Nhiều diễn đàn, hội nghị tại các tỉnh, thị thành và vùng Tây Bắc, Tây Nguyên và Tây Nam Bộ đều khẳng định vai trò nòng cột của các cán bộ người DTTS tại chỗ đối với quá trình phát triển kinh tế - xã hội các khu vực đặc thù. Câu chuyện nữ bí thơ Huyện ủy Bát Xát (Lào Cai) Giàng Thị Dung góp phần đánh thức tiềm năng du lịch vùng núi cao là một thí dụ. Sinh ra trong gia đình người Mông (Bắc Hà), thấu hiểu cuộc sống còn nhiều vất vả của đồng bào, chị luôn ước mong làm được điều gì góp phần xây dựng bản làng. Tốt nghiệp đại học loại giỏi, chị được giao nhiệm vụ qua nhiều cương vị khác nhau ở tỉnh Lào Cai. Năm 2014 vừa hoàn tất nhiệm vụ bí thơ Tỉnh Đoàn, chị cũng bảo vệ thành công luận án tiến sĩ kinh tế, trở nên nữ tiến sĩ người Mông trước nhất của tỉnh Lào Cai. Nhiệm kỳ 2015 - 2020, chị được luân chuyển về làm bí thơ Huyện ủy Bát Xát. Đây là huyện có diện tích tự nhiên rộng nhất tỉnh Lào Cai; kinh tế chính yếu là nông, lâm nghiệp, đời sống bà con tuy càng ngày càng ổn định nhưng chưa có bước đột phá. Nhận nhiệm vụ, chị đi khắp các xã, bản làng, tìm hiểu đời sống kinh tế, văn hóa địa phương, và nhận thấy Bát Xát có tiềm năng, lợi thế về du lịch, nổi tiếng với khí hậu ôn hòa, hiệp nghỉ dưỡng. Sau khi so sánh lợi thế và thị trường du lịch trong nước, chị nêu vấn đề để cấp ủy đàm luận, hợp nhất đưa du lịch thành ngành kinh tế mũi nhọn có tính đột phá. Ngoài tăng cường quảng bá, xây dựng hạ tầng du lịch, Huyện ủy Bát Xát chú trọng đào tạo nguồn nhân công. Với phương châm “mỗi người dân Bát Xát là một hướng dẫn viên du lịch”, Huyện ủy đã mở nhiều lớp đào tạo, tập huấn cho người dân tri thức căn bản về du lịch và dịch vụ du lịch... Thực tế đã chứng minh đây là hướng đi đúng, hạp và mang lại hiệu quả rõ rệt. Lượng khách du lịch đến với huyện Bát Xát tăng từ vài chục nghìn lượt năm 2010 lên hơn một trăm nghìn lượt năm 2016.
Tại không ít địa phương, đã có những trí thức trẻ người DTTS đảm đang các vị trí chủ chốt, nhất là ở cấp cơ sở, góp phần dẫn dắt sự phát triển của địa phương. Đó là hiệu quả từ việc hiện thực hóa nhiều chủ trương, chính sách trong lựa chọn, bồi dưỡng, đào tạo, dùng CBCCVC người DTTS. Nhiều cấp ủy, chính quyền đã tạo điều kiện cho lực lượng này tham gia các khóa học nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, lý luận chính trị và kỹ năng quản lý. Theo Bộ Nội vụ, số CBCCVC người DTTS được đào tạo chuyên môn là hơn 17.600 người, chiếm tỷ lệ 4,7%; lý luận chính trị là gần 14.400 người, ứng 3%; quản lý quốc gia: 7.368 người, đạt gần 9,5%; kỹ năng nghiệp vụ là gần 35.500 người, hơn 8,5%. Nhiều cơ quan, đơn vị, các bộ, ngành, địa phương áp dụng các chính sách, chế độ ưu tiên trong tuyển dụng cán bộ là người DTTS; xây dựng chính sách vấn người có trình độ chuyên môn cao về công tác tại miền núi, vùng cao, vùng đặc biệt khó khăn, vùng DTTS. Đến nay, cả nước có khoảng 64.560 CBCC người DTTS, đạt tỷ lệ 12,2%. Trong đó, ở Trung ương là gần 6.900 người, chiếm tỷ lệ 5%; ở các tỉnh, tỉnh thành trực thuộc Trung ương là 57.660 người, chiếm tỷ lệ 14,83%.
Gây dựng nòng cốt
Công tác bổ nhậm cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp là người DTTS cơ bản được các cấp ủy quan hoài và thực hành theo nguyên tắc hội tụ, dân chủ, khách quan và công khai. Cơ chế ưu tiên, tạo động lực đã khuyến khích người có trình độ, năng lực phấn đấu, góp phần đổi mới công tác cán bộ và nâng cao chất lượng hàng ngũ cán bộ DTTS. Khảo sát mới đây tại nhiều tỉnh Tây Nam Bộ và Tây Nguyên cho thấy, tỷ lệ CBCCVC là người DTTS nói chung và tỷ lệ cán bộ quản lý các cấp là người DTTS nói riêng đang từng bước được nâng lên so với tỷ lệ dân số người DTTS trên địa bàn. Ở khu vực Tây Nam Bộ, các tỉnh có đông đồng bào DTTS là Sóc Trăng và Trà Vinh đã khai triển chương trình, kế hoạch về đẩy mạnh phát triển nguồn nhân công các DTTS tới năm 2020, định hướng tới năm 2030, trong đó ưu tiên tuyển dụng người DTTS tại chỗ, người có bằng tấn sĩ, thạc sĩ và bằng đại học loại giỏi. Các tỉnh cũng quy định nghĩa vụ của cấp ủy, lãnh đạo cơ quan, đơn vị trong đào tạo bồi bổ, tuyển dụng người DTTS.
"Trước tình trạng đội ngũ cán bộ DTTS trong tỉnh thiếu và yếu, mất cân đối, tuổi 2016-2020, Ban Thường vụ Tỉnh ủy tập hợp chỉ đạo đổi mới công tác quy hoạch, tạo nguồn đối với đội ngũ cán bộ, công chức người DTTS. Hiện tỉnh đang rà, bổ sung, quy hoạch CBCC người DTTS các cấp; đặc biệt là các chức danh chủ chốt ở các địa phương có đông đồng bào DTTS" - đồng chí Huỳnh Văn Sum, Phó bí thơ Thường trực Tỉnh ủy Sóc Trăng đàm luận.
Theo Ban Tổ chức Tỉnh ủy Gia Lai, việc cơ cấu cán bộ người DTTS tại chỗ trong các cơ quan, đơn vị thuộc tỉnh được thực hiện từ nhiều nhiệm kỳ qua, với yêu cầu tuyển dụng cán bộ là người DTTS tại chỗ, bố trí công tác tại các sở, ban, ngành, MTTQ và đoàn thể, đơn vị trực thuộc tỉnh ít nhất là 10% so tổng biên chế được giao; cấp huyện ít ra 15%. Là địa phương có tỷ lệ người DTTS hơn 50%, những năm qua, Huyện ủy Chư Sê luôn quan hoài công tác quy hoạch, đào tạo, bố trí và dùng cán bộ người DTTS. Số cán bộ người DTTS từ cấp huyện tới cơ sở chiếm tỷ lệ khá cao, với hơn 100 người trong tổng số 474 CBCC. Trong đó nhiều cán bộ trẻ, người DTTS được đánh giá có triển vọng, như tại xã Ia Glai, có đồng chí Rah Lan Quy, sinh năm 1984, Huyện ủy viên, Phó bí thơ Đảng ủy xã; Kpă Tích, sinh 1982, Phó Chủ tịch UBND xã; Rah lan Khuyn, sinh 1989, chủ toạ Hội nữ giới xã. Họ đều là những cán bộ được đào tạo cơ bản, có đóng góp hăng hái cho các phong trào của xã. Ia Glai là một trong sáu xã (tổng là 14 xã) của huyện Chư Sê đã đạt chuẩn nông thôn mới. Nhiệm kỳ 2015-2020, tỷ lệ cán bộ DTTS quy hoạch Ban chấp hành Đảng bộ huyện đạt gần 17%; Ban Thường vụ Huyện ủy là gần 29%, cấp cơ sở là hơn 38%...
Huyện ủy Cư M’gar được Tỉnh ủy Đác Lắc đánh giá là có cố gắng đồng bộ, đã nâng tỷ lệ cán bộ người DTTS tăng đáng kể. Cụ thể, cán bộ cấp xã người DTTS đạt 38%; cấp huyện đạt 14%. san sẻ kinh nghiệm và đề xuất giải pháp, đồng chí Y Thek Niê, Phó bí thơ túc trực Huyện ủy cho rằng, để tỷ lệ cán bộ người DTTS đạt từ 20% đến 25%, trước tiên cần tăng tỷ lệ cán bộ DTTS trong tổng số cán bộ để tạo nguồn, đào tạo, tẩm bổ. Tuy nhiên, bây chừ, biên chế ngừa quá ít, cũng là áp lực cho công tác cán bộ DTTS.
Để tạo nguồn hàng ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý, hầu hết địa phương đã quý trọng chính sách cuốn cán bộ DTTS về công tác tại cơ sở, nơi có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn và đặc biệt khó khăn, từ đó rèn luyện, thử thách. Công tác quy hoạch, tạo nguồn, đào tạo, sử dụng đội ngũ cán bộ người DTTS đã góp phần tăng tỷ lệ đại biểu người DTTS trong HĐND cấp xã gần 38%; ở cấp huyện, tỉnh cũng tăng đều qua các nhiệm kỳ. Tuy nhiên, so đòi hỏi của thực tại phát triển kinh tế, tầng lớp và những vấn đề đặt ra trong cộng đồng người DTTS, số lượng và chất lượng đội ngũ cán bộ người DTTS vẫn chưa đáp ứng đề nghị.
>>> Nguồn: Phát triển hàng ngũ cán bộ người dân tộc ít người